Thực vật sống trong những điều kiện môi trường như thế nào?

Mục lục

Việc sử dụng thực vật để làm vườn để trang trí, làm thực phẩm, làm thuốc và làm vật liệu kéo dài suốt lịch sử phát triển của loài người trên trái đất. Trong khi những nhà thám hiểm châu Âu đầu tiên đến Bắc Mỹ mô tả thế giới mới là nơi hoang dã hoang sơ thì các thế hệ cư dân bản địa đã sử dụng thực vật để trang trí và nghi lễ cũng như quản lý các điều kiện trồng trọt để làm thực phẩm trong hàng nghìn năm.

Nhà thám hiểm thực vật đầu tiên ở châu Âu, Archibald Menzies đã được ghi nhận là người phát hiện, mô tả và sưu tập đầu tiên một số loài thực vật có nguồn gốc từ Tây Bắc Thái Bình Dương. Nguồn gốc đề cập đến quần thể thực vật xuất hiện tự nhiên ở các vùng địa phương. Ví dụ, Pseudotsuga menziesii (linh sam Douglas) và Arbutus menziesii (Pacific madrone) đều xuất hiện tự nhiên ở Tây Bắc Thái Bình Dương. Nguồn gốc hoặc xuất xứ của thực vật có thể được xác định về mặt địa lý hoặc chính trị. Acer saccharum (đường phong), có nguồn gốc từ miền trung đông Bắc Mỹ, nói cách khác, là người gốc Canada, nhưng không phải là người bản địa Tây Bắc Thái Bình Dương. Tương tự, Artemisia tridentata (cây ngải đắng lớn) và Rhusglabra (cây thù du mịn) có nguồn gốc từ nội địa British Columbia, nhưng chỉ ở các thung lũng nội địa khô ráo, không có ở bờ biển.

Thực vật bản địa

Thực vật xuất hiện tự nhiên ở một nơi được coi là bản địa hoặc bản địa của một nơi. Thực vật bản địa đã trải qua quá trình thích nghi di truyền cho phép chúng tiến hóa trong các điều kiện vật lý, hóa học và sinh học của hệ sinh thái địa phương. Như vậy, chúng hoạt động như một phần của cộng đồng sinh vật đa dạng sinh học bao gồm thực vật, động vật và vi sinh vật thích nghi với điều kiện môi trường địa phương.

Ở Bắc Mỹ, tên gọi bản địa thường được áp dụng cho các loài thực vật đã có mặt trước khi tiếp xúc lần đầu với người châu Âu. Vì vậy, Plantago spp. (chuối), mặc dù phổ biến rộng rãi ở đây, nhưng không được coi là cây bản địa vì chúng được đưa đến đây do sự nhập cư của những người định cư châu Âu đầu tiên. Tuy nhiên, những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và toàn cầu hóa có thể sẽ định nghĩa lại ý nghĩa của việc là người bản địa.

Làm vườn bản địa với các loại cây bản địa phù hợp với điều kiện và địa lý của một khu vực nhất định có thể mô phỏng tính đa dạng sinh học của môi trường sống tự nhiên. Các vườn thực vật bản địa tại địa phương thường bao gồm các loài thực vật không có nguồn gốc từ Lower Mainland của British Columbia, nhưng cũng bao gồm các loài thực vật có nguồn gốc từ các vùng khác của Tây Bắc Thái Bình Dương. Ví dụ, Quercus garryana ( sồi Garry), cũng được phát hiện và mô tả bởi Archibald Menzies, hiện được trồng trong các khu vườn ở Lower Mainland, nhưng chỉ được tìm thấy tự nhiên ở vùng khí hậu có bóng mưa, chẳng hạn như ở phía nam Đảo Vancouver.

Mặc dù không phải tất cả các loại cây bản địa đều có thể là khu vườn xứng đáng để làm cảnh, nhưng những cây được chọn từ khu vực địa phương của khu vườn thường sẽ kết hợp phù hợp và sẽ là một trong những cây thích nghi tốt nhất với điều kiện độ ẩm, đất và khí hậu địa phương. Mặc dù thực vật bản địa không tránh khỏi các vấn đề về sâu bệnh, nhưng phần lớn thực vật bản địa địa phương dường như ít gặp phải vấn đề hơn so với nhiều loài ngoại lai. Những nỗ lực khôi phục môi trường sống tự nhiên bằng cách sử dụng các loại cây trồng có nguồn gốc cụ thể được trồng từ hạt giống có nguồn gốc địa phương sẽ hoạt động tốt hơn so với những cây không phải bản địa khi được thiết lập ở những khu vực này. Tuy nhiên, việc thay đổi mô hình khí hậu và tác động của đô thị hóa có thể sẽ gây ra hậu quả đối với nguồn gốc thực vật.

Môi trường sống tự nhiên

Môi trường sống tự nhiên cung cấp tài nguyên cho phép thực vật bản địa tồn tại và phát triển trong điều kiện sinh trưởng hiện có. Ví dụ về môi trường sống tự nhiên thường được sử dụng làm chủ đề vườn làm vườn bao gồm núi cao, rừng cây, Địa Trung Hải và đầm lầy. Đặc điểm tăng trưởng của thực vật bản địa ở những môi trường sống này được định hình bởi sự khác biệt về độ cao, phạm vi nhiệt độ, lượng mưa, loại đất và địa chất cũng như các yếu tố sinh học và hóa học. Theo thời gian, các loài bản địa đã thích nghi thành công với điều kiện môi trường sống bằng cách phát triển các đặc điểm chuyên biệt để sinh tồn. Một số đặc điểm liên quan đến thực vật vùng núi cao, rừng cây, Địa Trung Hải và đầm lầy được mô tả dưới đây.

Cây núi cao

Thực vật vùng núi cao thích nghi tốt với môi trường khắc nghiệt ở độ cao lớn. Phía trên hàng cây, nhiệt độ thấp, ánh nắng cao, gió liên tục, khô ráo và mùa sinh trưởng ngắn là điển hình. Sự thích nghi của thực vật bao gồm sự phát triển thấp so với mặt đất, thói quen đệm hoặc thảm nhỏ gọn và lá thường xanh dày, có lông hoặc có lông (có lông) hoặc xoăn. Alpines, chẳng hạn như Campanula spp. (hoa chuông) ra hoa vào cuối mùa xuân và đầu mùa hè và có thể có rễ sâu hoặc rộng hoặc các cơ quan lưu trữ dưới mặt đất để tồn tại ở vùng đất núi mỏng, ít dinh dưỡng. Mặc dù thích nghi tốt với nhiệt độ khắc nghiệt, thực vật vùng núi cao thường không chịu được độ ẩm liên tục xung quanh rễ và điều kiện mùa hè ấm áp và ẩm ướt.

Cây dưới tán rừng

Môi trường sống rừng ôn đới được đặc trưng bởi các mùa sinh trưởng rõ rệt, thời kỳ ngủ đông, lượng mưa tương đối ổn định và đất đai màu mỡ. Cây cối thống trị môi trường sống này tạo thành một tán cây trên cao che mát và làm mát tầng dưới tán và nền rừng ở các mức độ khác nhau. Thực vật dưới tán rừng bao gồm các lớp cây bụi thân gỗ và cây thân thảo có khả năng thích nghi về kích thước, hình dạng, khả năng chịu bóng râm và tăng trưởng chậm hoặc ngủ đông khi ánh sáng và nước bị hạn chế Cây dưới tán như Hydrangea quercifolia(tú cầu lá sồi) ra hoa vào cuối mùa đông đến đầu mùa hè, trước khi lá của những cây rụng lá mọc lên hoàn toàn. Tùy thuộc vào lượng ánh sáng có sẵn, một số cây dưới tán có màu lá đặc biệt và kiểu dáng trang trí trong vườn.

Thực vật Địa Trung Hải

Thực vật Địa Trung Hải, chẳng hạn như Cotinus coggygria (bụi khói) và Lavandula spp. (hoa oải hương) thích nghi với mùa đông ngắn, ôn hòa và ẩm ướt cũng như mùa hè dài, ấm áp và khô ráo. Một số là cây thường xanh ngắn, rậm rạp và cây bụi thích hợp với đất thoát nước tốt, hạn hán và cháy rừng. Lá có thể có nhiều lông hoặc giảm kích thước, có mùi thơm với lớp phủ dày, như sáp hoặc có lông để giảm mất nước và có màu xám xanh (glaucous) hoặc màu nhạt để phản chiếu ánh sáng quá mức. Một số ví dụ về thảm thực vật xuất hiện tự nhiên được liệt kê tại liên kết này tới Wikipedia về khí hậu Địa Trung Hải.

Cây đầm lầy

Môi trường sống đầm lầy và nước ngọt thường nghèo oxy và chất dinh dưỡng với điều kiện pH axit. Quercus palustris (sồi pin) là một ví dụ về cây mọc tự nhiên trong những điều kiện này. Thực vật đầm lầy thích nghi với việc phát triển ở vùng nước đọng trong khi các thực vật cận biên như Iris siberica (Siberian iris) và Typha spp. (đuôi mèo) phát triển mạnh ở vùng đất ngập nước và vùng nước nông có thời gian khô hạn ngắn. Một số loại cây đầm lầy và cận biên như Juncus effusus ‘Spiralis’ có tán lá nổi bật và là lựa chọn phù hợp để trồng ở những khu vực có hệ thống thoát nước hạn chế hoặc kém.

Tham khảo thêm:

  1. http://www.goert.ca/about/why_important.php
  2. http://www.mbgnet.net/bioplants/adapt.html
  3. https://www.coursera.org/lecture/mountains-101/9-4-adaptations-of-alpine-plants-OFWIc
  4. https://www.youtube.com/watch?v=69sN3JOHhDc&feature=youtu.be
  5. vi.Wikipedia.org/wiki/Mediterranean_climate#Mediterranean_biome
  6. https://youtu.be/kzbhVhXul3E

Bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *